THIẾT BỊ VÀ HÓA CHẤT MÔI TRƯỜNG NGÀNH NƯỚC VÀ NƯỚC THẢI

2 tháng 12, 2008

Thu thập mẫu cho các xét nghiệm vi sinh

Thùng chứa mẫu
Thu thập mẫu để thử nghiệm vi sinh, các chai phải được rửa sạch và tráng cẩn thận với lần tráng cuối cùng bằng nước cất và được vô trùng (tham khảo trong Standard Methods 18th về quá trình làm sạch và vô trùng ). Có thể thay thế bằng cách đặt mua các thùng chứa được vô trùng sẵn và kiểm tra tính nguyên vẹn với nắp đậy kín trước khi sử dụng.

Khử trùng mẫu
Cho chất khử vào thùng chứa sẽ dùng để thu thập mẫu là hàm lượng clo dư hoặc các halogen khác, trừ trường hợp thùng chứa chất nuôi cấy trực tiếp sinh vật. Natri thiosulfat (Na2S2O3) là tác nhân khử thỏa mãn yêu cầu trung hòa bất kì lượng halogen dư nào và ngăn chặn sự hoạt động liên tục của vi sinh vật trong quá trình lưu chuyển mẫu. Có thể thay thế bằng cách đặt mua các thùng chứa được vô trùng sẵn thích hợp với thể tích mẫu được cho là có chứa natri thiosulfat ở dạng hạt nhỏ. Thử nghiệm sau đó sẽ chỉ thị chính xác hơn lượng vi sinh có trong mẫu tại thời điểm lấy mẫu. Đối với các mẫu nước uống, nồng độ chất khử là 0.1 mL trong 3% dung dịch natri thiosulfat trong chai 120-mL sẽ cho nồng độ cuối cùng là 18 mg/L và trung hòa đến 5 mg/L clo dư. Trong trường hợp khử trùng khẩn với nồng độ clo dư cao hơn lượng chất khử thích hợp cho vào mẫu là 100 mg/L.

Thu thập mẫu – Tổng quát
1. Khi mẫu được thu thập, chừa một khoảng trống không khí bên trong chai (ít nhất 2.5 cm) để thích hợp cho việc khuấy trộn trước khi phân tích.
2. Thu thập mẫu có tính đại diện, rửa bằng tia nước hoặc khử trùng ống thu mẫu và dùng kỹ thuật khử trùng để tránh làm nhiễm bẩn mẫu.
3. Để sát chai thu mẫu đến khi được đổ đầy.
4. Bỏ nút chặn và nắp thùng chứa. Không để nhiễm bẩn mặt bên trong nút chặn và nắp cũng như cổ chai.
5. Đổ đầy thùng chứa không cần tráng rửa.
6. Đậy nút chặn và nắp ngay lập tức nếu cần sử dụng thêm đai an toàn quanh cổ chai. Có thể dùng loại nút đậy an toàn chống thấm thay thế.

Thu thập mẫu – Nước sinh hoạt
Nếu mẫu nước uống được lấy từ đầu xả của hệ thống phân phối mà không có gì gắn liền, chọn nút xả đang được dùng cung cấp nước từ hệ thống ống dẫn kết nối với mạng chính ví dụ như nút xả đó không được có nguồn dẫn từ bể chứa hay hồ chứa. Mở nút xả hoàn toàn và xả bỏ nước từ 2-3 phút hoặc lâu hơn tùy theo mức độ cho phép làm sạch đường ống hoạt động. Giảm lưu lượng nước để thu vào chai dễ dàng. Nếu nghi ngờ nút xả không được sạch cần phải cho natri hypochlorite vào đầu vòi nước trước khi thu mẫu; phải để nước chảy thêm 2 -3 phút sau khi xử lý.
Không thu mẫu từ các nút xả bị rò rỉ. Trong quá trình lấy mẫu từ vòi nước pha trộn, tháo các phụ kiện như lưới lọc, tấm chắn tóe, chạy nước nóng trong 2 phút sau đó nước lạnh từ 2 đên 3 phút và thu mẫu theo các bước ở trên.
Nếu thu mẫu từ các giếng được bơm bằng tay, bơm nước để xả bỏ trong 5 phút trước khi lấy mẫu. Nếu giếng bơm bằng máy, lấy mẫu từ ống xả bơm nước ra. Nếu không có máy bơm mà phải lấy nước giếng trực tiếp thì thùng đưa xuống giếng lấy mẫu phải được khử trùng với lượng hóa chất thích hợp, cẩn thận tránh bị nhiễm bẩn mẫu bởi váng cặn. Trong đánh giá nước uống, thu các mẫu nước đã xử lý và từ vị trí phân phối được lựa chọn để đảm bảo tính hệ thống qua mỗi tháng. Cẩn thận trong việc lựa chọn địa điểm mẫu hệ thống phân phối để bao gồm được các phần đoạn cuối chết cho việc chứng minh tính chất sinh học xuyên suốt cả mạng lưới và để chắc rằng việc nhiễm bẩn không xảy ra trong suốt các đoạn kết nối, tách đường dẫn hay giảm áp suất. Vị trí thu mẫu có thể là các vị trí công cộng (trạm cảnh sát, cứu hỏa, văn phòng nhà nước, trường học, trạm xe buýt xe lửa, sân bay, công viên hay các khu thương mại như nhà hàng, trạm xăng, văn phòng, nhà máy) hay các trạm đặc biết được xây trong mạng phân phối. Thiết lập chương trình thu mẫu cần có sự tư vấn của tồ chức chính thức về sức khỏe tại vùng hoặc thành phố.

Thu thập mẩu - Cấp nước thô
Trong thu thập mẫu trực tiếp từ nguồn là sông, suối, hồ chứa hay giếng cạn, cần thu được mẫu đại diện cho nguốn cấp. Không thể lấy mẫu quá gần bờ hay quá xa điểm mương xả, hoặc tại độ sâu trên hay dưới điểm mương xả

Thu thập mẫu – Nước mặt
Các nghiên cứu suối có thể là ngắn hạn cấn nhiều nỗ lực cường độ cao. Lựa chọn vị trí mẫu sinh học bao gồm một vị trí đường mức đấu nguồn từ khu vực nghiên cứu, dòng chảy ra từ công nghiệp hay đô thị vào trong vùng suối nghiên cứu chính, các nhánh phụ ngoại trừ lưu lượng thấp hơn 10% dòng chính, các điểm lấy nước vào cho dân cư và công nghiệp sử dụng, mẫu hạ lưu được dựa trên thời gian dòng chảy và vùng trống ở hạ lưu. Sự phát tán nước thải vào dòng tiếp nhận có thể cần thiêt cho nghiên cứu các mặt cắt ngang ban đầu để xác định sự pha trộn hoàn toàn. Ở nơi các nhánh phụ được tính vào, chọn điểm thu mẫu gần nơi hợp lưu với nhánh chính. Mẫu có thể được thu từ thuyền hay cầu gần điểm nghiên cứu quan trọng. Chọn tần suất thu mẫu phản ánh được điều kiện khối nước của đối tượng nghiên cứu. Ví dụ, để đánh giá nước thải bỏ, thu mẫu sau 4 đến 6 giờ trong khoảng 7 đến 10 ngày. Để quan trắc chất lượng nước suối, hồ ao cần chọn vị trí thu mẫu tại điểm chính. Tần số thu mẫu theo mùa đối với nước phục vụ giải trí, hằng ngày đối với nước cấp vào, hằng giờ với nơi nào kiểm soát nước thải đầu ra và nguồn tiếp nhận là khu vực trồng trọt đánh bắt thủy sản.

Thu thập mẫu – Các bãi tắm
Vị trí thu mẫu tại các khu vực vui chơi giải trí nên phản ánh chất lượng nước cho toàn bộ khu vực đó, bao gồm các vị trí khu vực đầu nguồn và các vùng lân cận với các rãnh tháo nước hay đường đồng mức tự nhiên cho thoát nước khi mưa lũ hoặc chất thải tự hoại. Mẫu thu thập trong khu vực bơi lội ở độ sâu xâp xỉ 1 m. Lưu ý đến việc thu thập mẫu bùn sa lắng ở vùng ven bờ chuyển tiếp vì trẻ em tiếp xúc tại mực nước này. Để có dữ liệu nền về chất lượng nước biển và vùng cửa sông, mẫu phải được thu khi cả thủy triều lên và xuống.

Thu thập mẫu – lớp trầm tích và lớp bùn
Tính sinh học của lớp trầm tích đáy rất quan trọng đối với nước cấp từ hồ chứa, sông hay nước ven bờ dùng cho mục đích vui chơi giải trí và chăn nuôi thủy sản. Lớp trầm tích có thể cung cấp chỉ số tổng quát về chất lượng nước phía trên nơi có sự khác biệt lớn về đặc điểm sinh học. Tần số thu mẫu trong hồ và bể chứa liên quan đến sự thay đổi mùa và nhiệt độ của nước hay nước mưa chảy tràn. Trầm tích đáy thay đổi ở nước sông và cửa sông có thể không ổn định hơn do ảnh hưởng bởi nước mưa lũ, vận tốc dòng chảy gia tăng và sự thay đổi đột ngột của dòng xả thải. Thí nghiệm vi sinh vật của bùn từ nước và quy trình xử lý nước thải được xem như quyết định đến các tác động của lượng thải lên môi trường tiếp nhận ( nguồn nước tiếp nhận, bãi chôn lấp rác hay thải bỏ xuống biến). Quan trắc bùn thải có thể chỉ thị hiệu suất của quá trình xử lý nước thải.

Thu thập mẩu – Bằng tay
Lấy mẫu từ sông, suối, hồ bằng cách giữ lấy chai ngay chỗ tay cầm và nhúng đầu cổ chai hướng xuống phía dưới mặt nước. Quay chai đến khi cổ chai hơi hướng lên và miệng chai hướng về dòng chảy. Nếu không có dòng chảy, như trong trường hợp tại bể chứa, thì tạo dòng chảy bằng cách đẩy chai theo chiều ngang vế phía trước theo hướng ra xa tay cầm. Khi thu mẫu từ thuyền, lấy mẫu ở phía trước mũi thuyền. Nếu không thể thu mẫu theo những cách này, gắn một vật nặng vào chai và thả vào nước. Trong bất kì trường hợp nào cũng phải lưu ý tránh tiếp xúc với bờ hay đáy kênh.

Kích thước mẫu
Thể tích mẩu cần lấy phải dự trù đủ cho các xét nghiệm sẽ tiến hành, thường không được ít hơn 100mL

Nhận diện mẫu
Phải mô tả chính xác mẫu thu thập. Không chấp nhận xét nghiệm các mẫu không được ghi nhận rõ ràng.

Bảo quản, lưu trữ và vận chuyển mẫu
1. Mẫu phải được lưu trữ và làm lạnh trong ngày nếu phải vận chuyển hoặc phân phối qua đêm.
2. Thời gian trữ: tất cả mẫu vi sinh phải được tiến hành test trong vòng 24h.

Nguồn: BioVir Laboratories

Không có nhận xét nào: